Bệnh Rubella (tiếng Pháp gọi là bệnh Rubeole) còn gọi là bệnh sởi Đức hay bệnh phát ban thứ ba. Tên gọi Rubella xuất xứ từ tiếng Latin nghĩa là “đỏ nhạt’’do bệnh đặc trưng bởi phát ban màu đỏ nhạt.
Bệnh Rubella do virus thuộc nhóm Togavirus gây nên. Đây là một virus có vỏ bao chứa ARN mang kháng nguyên đơn không phản ứng chéo với các virus khác trong nhóm Togavirus. Cho đến nay đây vẫn chỉ là bệnh của người và chưa phát hiện thấy có ổ chứa động vật, đồng thời chưa có bằng chứng bệnh lây do côn trùng. Bệnh lây từ người sang người nhưng điều đáng quan tâm là cả những người nhiễm không triệu chứng hoặc chỉ có biểu hiện về mặt lâm sàng cũng có thể gây lây nhiễm, giai đoạn dễ lây nhất là phát ban nhưng virus đã có thể phát tán từ trước khi phát ban và sau khi ban bay đi một ngày. Do vậy biện pháp phòng bệnh không đặc hiệu ít có hiệu quả. Vaccin vẫn là giải pháp lựa chọn hàng đầu nhất là đối phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Khi người bệnh mang virus ho hay hắt hơi, các giọt chất xuất tiết đường hô hấp nhỏ li ti chứa virus sẽ phát tán rộng ra môi trường xung quanh. Những người khác có thể bị lây bệnh khi trực tiếp khi phải những giọt nhỏ đó, hoặc gián tiếp qua tiếp xúc với những vật chung gian mang những giọt nhỏ đó như bắt tay, dùng chung khăn tay hay trẻ dùng chung đồ chơi. Sau khi xâm nhập đường hô hấp virus sẽ nhân lên ở họng mũi các hạch bạch huyết quanh đó. Năm đến 7 ngày sau virus vào máu và lan tràn khắp cơ thể. Nếu người bệnh mang thai trong giai đoạn này, trong giai đoạn sớm (ba tháng đầu thai kỳ) virus có thể qua rau thai gây nhiễm cho thai dẫn đến những hậu quả nặng nề, Virus này có thể ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan và gây ra một loạt các khuyết tổn bẩm sinh. Nhiễm virus này có thể dẫn đến thai lưu, sẩy thai tự nhiên hay đẻ non. Bên cạnh bệnh Rubella thể mắc phải còn có thể bẩm sinh. Đó là những trường hợp nhiễm Rubella từ trong bào thai.
Thời kì nung bệnh của Rubella là 14 ngày, nhưng có thể dao động từ 12-23 ngày. Sau đó thời kì khởi phát ngắn, kéo dài từ vài giờ đến 1-2 ngày với sốt, mệt mỏi, khó chịu. Có khi không sốt nhưng có những trường hợp sốt tới 39-40 độ C và trẻ có thể bị co giật. Khám bệnh thời kì này có thể thấy niên mạc miệng hơi đỏ, có những chấm nhỏ ở màng hầu gọi là chấm Forsheimer đồng thời thấy sưng hạch ở nhiều nơi, nhất là ở sau gáy, quai hàm, sau tai và dọc cơ ức đòn chũm. Tuy vậy người bệnh chỉ đi khám vào giai đoạn phát tới biểu hiện phát ban.
Đặc điểm của ban là những vết đỏ màu hồng hay đỏ hồng kích thước khoảng nửa lá bèo tấm, hình tròn hoặc bầu dục, bằng phẳng hoặc chỉ hơi nhồ lên mặt da. Ban đầu tiên mọc ở mặt sau đó lan ra khắp người. Khác với bệnh sởi, ban mọc không theo trật tự nhất định, nhỏ hơn và ít chụm với nhau hơn. Ban nhạt và thưa hơn bệnh sởi nhưng nổi rõ sai khi tắm nóng. Ban thường không ngứa, đôi khi có ngứa nhẹ. Phát ban diễn biến rất nhanh, chỉ sau 24h là mọc khắp người và 3-4 ngày sau là bay đi hết, không để lại di tích trên da.
Bên cạnh phát ban có những bệnh nhân còn bị đau và viêm khớp, viêm kết mạc, viêm mũi, đau và viêm tinh hoàn. Sau khi ban bay các triệu chứng giảm dần rồi hết nhưng hach sưng có thể vẫn còn kéo dài tới vài tuần sau đó.
Bệnh ít khi gây biến chứng nhưng một khi đã xuất hiện thì các biến chứng hay thấy ở người lớn hơn trẻ em. Đau và viêm khớp hay bị các khớp các ngón tay và đầu gối; Viêm não; Xuất huyết, hay gặp nhất là xuất huyêt dưới da hay xuất huyêt tiêu hóa,xuất huyết não hay là xuát huyết trong thận. Phần lớn các bệnh nhân đều hồi phục. Các biến chứng khác còn có viêm tinh hoàn, viêm thần kinh và hiếm hơn là viêm toàn não tiên triển.
Chẩn đoán bệnh Rubella cần kết hợp lâm sàng và xét nghiệm. Trong vụ dịch chuẩn có thể chỉ cần dựa trên lâm sàng nhưng ngoài dịch vụ và đối với những trường hợp không thể biểu hiện trên lâm sàng thì khó hơn phải dựa vào bằng chứng nhiễm Rubella cấp tính. Đó là kết quả nuôi cấy virus dương tính với Rubella,hoặc phát hiện virus qua PCR (phản ứng chuỗi polymerase), kháng thể lgM đặc hiệu, hoặc tăng hiệu giá kháng thể lgM trên hai mẫu huyêt thanh lấy ở giai đoạn cấp tính và giai đoạn phục hồi.
Ngay từ năm 1969 đã có những vaccin RA 27/3 (nguyên bào sợi lưỡng bội của người ) được chấp nhận rộng rãi cho đến nay. Đây là vaccin virus sống giảm độc lực. Thường vacin này được kết hợp với vaccin quai bị và sởi thành vaccin liên hợp MMR, hoặc thêm cả vaccin thủy đậu thành MMRV. Các vaccin này đóng sẵn ở dạng bột đông khô, phải pha với nước cất trước khi tiêm.
Khuyến cáo hiện nay nên dùng liều MMR đầu tiên cho trẻ từ 1 tuổi trở lên. Liều MMR thứ hai nên cho một cách thường quy khi trẻ được 4-6 tuổi. Đối với trẻ lớn và người lớn, những ai chưa tiêm vaccin MMR đều nên cho ít nhất một liều vaccin. Liều thứ 2 có thể cách liều thứ nhất ít nhất 1 tháng. Bản thân vaccin Rubella rất an toàn. Các phản ứng sau tiêm hay gặp nhất là sốt, nổi hạch và đau khớp. Những phản ứng này thường hay gặp ở những người nhạy cảm và hay gặp hơn là ở người lớn, nhất là ở phụ nữ.
Tuy vậy, vaccin Rubella cũng có những chống chỉ định và thận trọng khi dùng:
Những người đã bị phản ứng dị ứng nặng (nổi mẫn, mày đay, sưng nề miệng họng, khó thở, hạ huyết áp) sau khi dùng vaccine nói chung không nên dùng vaccine MMR.
Không dùng cho phụ nữ có thai hoặc những người có thể có thai trong vòng 1-3 tháng (khi tiêm phòng, phải sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả trong 3 tháng liên tục, gồm 1 tháng trước khi chủng và 2 tháng sau khi chủng).
Ngoài ra những đối tượng suy giảm miễn dịch hoặc đang dùng thuốc ức chế miễn dịch cũng không nên tiêm vaccin. đang dùng corticoid liều thấp (dưới 2mg/kg/ngày) dùng cách ngày, dùng tại chỗ hoặc khi dùng là chống chỉ định đối với vaccin Rubella.