1. Những người dễ bị mắc bệnh quai bị:
Tất cả những ai chưa từng bị quai bị lúc còn bé hoặc chưa được tiêm phòng vắc-xin ngừa quai bị đều có khả năng bị nhiễm bệnh. Đối tượng dễ nhiễm bệnh nhất là trẻ em trong lứa tuổi đi học và tuổi vị thành niên (thường là trẻ em nam).
2. Triệu chứng lâm sàng:
Những triệu chứng xuất hiện rất sớm ngay cả trước khi các tuyến nước bọt bắt đầu sưng lên. Bệnh nhân mắc bệnh quai bị sẽ cảm thấy mệt mỏi, ăn không ngon, mất vị giác, và thông thường nhất là sốt và chứng đau đầu. Bệnh nhân bị quai bị có thể bị :
* Đau và sưng ở 1 bên hoặc cả 2 bên cổ, ở trước lỗ tai và góc hàm.
* Khó nuốt hoặc khó nói chuyện.
* Sốt
* Phát ban.
* Biến chứng: viêm tinh hoàn với xác suất 1/5 nếu bệnh xảy ra ở trẻ lớn và người lớn, tình trạng này có thể dẫn đến vô sinh về sau nhưng với một tỷ lệ rất nhỏ. Ngoài ra bệnh còn có thể gây viêm màng não, viêm tụy và gây chứng điếc vĩnh viễn. Đa số các trường hợp quai bị đều tự hồi phục không có biến chứng. Tuy nhiên vẫn có một số rất ít trường hợp có những biến chứng như: sẩy thai tự nhiên (nhất là ở giai đoạn đầu của thai kỳ), điếc, sưng phù nề tinh hoàn, buồng trứng v.v... Các biến chứng này thường gặp ở người lớn trẻ tuổi.
+ Viêm tuyến mang tai:
Là thể thường nhất và điển hình nhất, trẻ sốt 380C - 390C, nhức đầu, mệt mỏi, ăn ngủ kém; viêm sưng tuyến mang tai, da căng phồng lên, không đỏ, đau, miệng khô và khó nuốt. Có khi viêm cả tuyến nước bọt dưới hàm, dưới lưỡi, nên mặt bạnh ra, nước bọt ít và quánh. Sau 4 - 5 ngày hết sốt, sưng đau, giảm dần và khỏi.
+ Viêm tinh hoàn:
- Hay gặp ở tuổi thanh niên (20% -30% các ca), thường xảy ra vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 8 sau khi viêm tuyến mang tai. Sốt cao trở lại, tinh hoàn sưng tấy, đỏ, bìu căng co khi kéo dài cả tuần. Sau 2 - 6 tháng tinh hoàn bị viêm nhỏ hơn bình thường.
- Xử trí: mặc quần áo chặt để treo tinh hoàn, chườm nóng; nằm nghỉ từ 5 - 7 ngày; dùng Prednisolone 1 - 2mg/kg/ngày trong 7 - 10 ngày, vitamine E từ 1 - 2 tháng để tạo khả năng tinh trùng sau viêm.
+ Viêm buồng trứng:
Chỉ gặp ở phụ nữ dậy thì, sốt, đau bụng dưới có thể xuất huyết tử cung nhẹ trong vài ngày.
+ Viêm tụy cấp:
- Thường chỉ gặp ở người lớn, rất hiếm ở trẻ em, sốt, đau bụng cấp, tiêu chảy, biếng ăn.
- Xử trí: ăn thức ăn lỏng, truyền Dextrose 10%, giảm đau bằng Atropine.
+ Viêm não - màng não:
Sốt 380C - 390C kèm theo rét run; có dấu hiệu màng não (nhức đầu, nôn ói, ly bì, cổ gượng); có thể co giật, hôn mê.
3. Điều trị bệnh:
Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu đối với quai bị. Việc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng và nâng cao thể trạng bệnh nhân.
- Cho bệnh nhân nằm nghỉ tuyệt đối (nhất là khi có biến chứng sưng tinh hoàn)
- Dùng thuốc hạ sốt giảm đau như Paracetamol, Aspirine.
- Súc miệng nước muối
- Cho bệnh nhân ăn chế độ ăn lỏng và nhẹ, uống nhiều nước, tránh sử dụng các thức ăn, nước uống có vị chua.
- Chườm ấm hoặc chườm mát vùng góc hàm để giảm đau và giảm sưng tuyến nước bọt. Có thể dùng bài thuốc nam sau đây để bôi tại chỗ: hạt gấc đập bỏ vỏ ngoài, giã nhuyễn, ngâm với rượu trắng bôi tại vùng má bị sưng 4 - 5 lần/ngày.
Vì quai bị là một bệnh nhiễm vi-rút nên không có chỉ định dùng kháng sinh nếu không có ý kiến của thầy thuốc.
4. Phòng bệnh:
Quai bị là một bệnh nhiễm trùng dễ lây, vì thể để dự phòng bệnh tốt cần phát hiện bệnh sớm, thực hiện cách ly bệnh nhân đúng cách bằng cách để bệnh nhân nghỉ ngơi tại phòng riêng từ 10 - 15 ngày. Trẻ em phải được nghỉ học, người lớn phải nghỉ làm trong thời gian kể trên để tránh lây lan bệnh.
- Không sử dụng chung các dụng cụ ăn uống (muỗng, nĩa, ly, chén, dĩa v.v...)
- Thường xuyên lau sạch sàn nhà, bàn ghế, rửa sạch các đồ chơi của trẻ.
- Rửa tay nhiều lần bằng xà phòng trong ngày, nhất là sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn.
- Che miệng khi ho, khi hắt hơi, sau đó phải rửa tay ngay bằng xà phòng.
- Thực hiện tiêm phòng vắc-xin để phòng bệnh. Hiện nay đã có loại vắc xin ngừa cùng lúc cả 3 bệnh Sởi - Quai bị - Rubella (MMR) được sử dụng cho trẻ từ 12 - 15 tháng tuổi và nhắc lại khi trẻ được 6 - 12 tuổi.
+ Các trẻ em trên 15 tháng có thể tiêm chủng phòng ngừa quai bị bằng vắc-xin MMR lần thứ nhất. Lần tiêm thứ hai được nhắc lại khi trẻ được 5 tuổi.
+ Trẻ em trên 5 tuổi và người lớn chỉ cần tiêm ngừa một mũi duy nhất.
+ Sau khi tiêm bệnh nhân sẽ được miễn dịch vĩnh viễn (suốt đời) với bệnh.